Vũ Nương là một nhân vật trong Truyền kì mạn lục ở đoạn trích “Chuyện người con gái Nam Xương”. Nguyễn Dữ đã xây dựng đây là một hình tượng người phụ nữ đại diện cho xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Tìm hiểu về nhân vật Vũ Nương ta mới thấy được những phẩm chất của người phụ nữ Việt cùng nỗi bất hạnh mà xã hội nam quyền đã dồn ép nàng đến bước đường cùng.
Hãy cùng tham khảo tổng hợp 4 bài phân tích nhân vật Vũ Nương dưới đây để thấy được tâm trạng và hiểu rõ nhân vật này hơn nhé.
Table of Contents
1. Bài tham khảo phân tích nhân vật Vũ Nương số 1
1.1 Mở bài
- Giới thiệu về đoạn trích “Chuyện người con gái Nam Xương”
- “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những đoạn trích từ Truyền kì mạn lục hay nhất của tác giả Nguyễn Dữ. Tác phẩm được dựa trên cốt truyện dân gian “VỢ chàng Trương” kết hợp với sự sáng tạo của tác giả và tạo nên áng văn đặc sắc. Qua tác phẩm và nhân vật Vũ Nương, tác giả muốn ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ đồng thời đồng cảm với số phận bất hạnh của họ.
- Giới thiệu nhân vật Vũ Nương
- Vũ Nương là người đại diện cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ. Ở nàng hội tụ đầy đủ những vẻ đẹp của người con gái truyền thống “tính đã thùy mị nết na lại được tư dung tốt đẹp”. Nhưng số phận của nàng lại bấp bênh, bất hạnh và bị dồn ép phải tìm đến cái chết.
1.2 Thân bài
- Khái quát về vẻ đẹp của Vũ Nương
- Nói về vẻ đẹp của nàng, Nguyễn Dữ đã không tiếc câu chữ đã ca ngợi vẻ đẹp, phẩm chất đó. Vũ Nương là người vợ hiền thục, trong trắng, thủy chung, một lòng một dạ với chồng.
- Phân tích vẻ đẹp của Vũ Nương: người vợ thủy chung
- Khi mới đặt chân về nhà chồng, nàng luôn giữ mình khuôn phép vì biết chồng có tính hay ghen. Nàng giữ cho hạnh phúc gia đình luôn yên ấm. Rồi chiến tranh xảy ra, chồng của nàng – Trương Sinh phải ra chiến trường, nàng cũng chỉ một lòng mong hai chữ “bình yên” trở về.
- Nàng không ham giàu sang, phú quý, không màng danh vọng. Nàng chỉ mơ ước cuộc sống yên ổn, êm đềm với gia đình nhỏ bé. Giây phút ngậm ngùi chia tay của hai vợ chồng lại càng thấy được tình yêu thương mà Vũ Nương dành cho Trương Sinh.
- Chính bởi vậy mà những năm tháng xa chồng, nàng luôn da diết nhớ về Trương Sinh. Thậm chí, cái bóng của mình trên tường cũng được nàng biến hóa thành chồng để vừa dỗ con, vừa vơi đi nỗi nhớ.
- Ngay cả ở thời khắc bị chính chồng của mình nghi oan, nàng vẫn cố gắng phân trần, tha thiết tìm cách hàn gắn hạnh phúc gia đình. Nhưng mọi cố gắng của nàng đều không được đền đáp. Chỉ có cái chết lúc này mới chứng minh được tấm lòng thủy chung son sắc của nàng.
- Dù khi ở dưới thủy cung, nàng vẫn luôn mong ngóng được trở về, mong được hóa giải hiểu lầm xưa cũ. Có thể thấy, dù ở hoàn cảnh nào, Vũ Nương cũng luôn hướng về chồng, gia đình, luôn cố gắng vun vén, tha thiết có được sự yêu thương.
- Phân tích Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo
- Không chỉ vậy, nàng còn là một người con dâu hiền thảo hết mực. Chồng đi lính nơi chiến trường, nàng ở nhà chăm sóc mẹ chồng. Thuốc thang đầy đủ, vái lạy bốn phương, cầu trời khấn phật cho mẹ mau khỏi bệnh. Tấm lòng này thật sự hết sức cảm động.
- Và tấm lòng của nàng cũng được mẹ ghi nhận. Thể hiện rõ nhất là lời trăn trối của bà trước lúc nhắm mắt xuôi tay: “Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”.
- Lời nói đấy chính là sự ghi nhận của người mẹ đối với tấm lòng của Vũ Nương. Đó là công lao to lớn, sự hiếu thảo của nàng dâu đối với mẹ chồng. Nàng lo cho mẹ thuốc thang, ốm đau để rồi cũng phải lo ma chay mà lòng vô cùng đau xót.
- Vũ Nương là một người mẹ hết mực thương con
- Với đứa con nhỏ, Vũ Nương cũng luôn thể hiện tình yêu thương hết mực của người mẹ. Nàng luôn chăm sóc bé Đản chu đáo. Nàng thấu hiểu những thiếu thốn của con, muốn bù đắp cho con tình yêu thương của cha. Quả thật, người mẹ này thật sự thấu hiểu và hy sinh một cách vĩ đại.
- Không chỉ có những đức tính tốt đẹp, nàng còn là người phụ nữ trọng nhân phẩm, tình nghĩa và lòng bao dung vô bờ. Bi kịch lớn nhất của cuộc đời nàng là bị chồng nghi oan và phải dùng cái chết để minh oan cho mình. Nhưng khi được lập đàn giải oan, Vũ Nương trở về mà không hề trách móc hay oán hận Trương Sinh. Người phụ nữ bao dung như vậy quả thật đáng trân trọng.
- Bất kì người nào cũng mong muốn một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình. Vũ Nương cũng vậy. Nàng luôn mong muốn trở về nhưng còn lời hứa với Linh Phi cũng không thể chối bỏ. “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ”. Vậy là nàng đã chối bỏ cơ hội được quay về với gia đình bởi tình nghĩa cưu mang của Linh Phi. Quả thực, vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương thật đáng trân trọng và ca ngợi.
- Phân tích bi kịch của Vũ Nương
- Dù có những phẩm chất đáng quý nhưng Vũ Nương lại có số phận vô cùng bất hạnh. Mà mầm mống của sự bất hạnh đó lại từ cuộc hôn nhân, gia đình mà nàng đang gửi gắm niềm tin vào hạnh phúc.
- Trương Sinh vốn là một kẻ độc đoán, hay ghen. Vừa kết hôn chưa lâu, cả hai đã phải chia tay vì chiến tranh, vì Trương Sinh phải ra chiến trường. Ngày đoàn tụ cũng là ngày mà bi kịch nổi lên. Nàng không thể minh oan được cho bản thân mà còn bị đối xử thô bạo, vũ phu, tàn nhẫn. Để rồi, nàng chỉ có thể bức tử để thanh minh cho mình.
- Dù sống dưới thủy cung không còn chịu những đau khổ, dù được trao cơ hội quay trở về nhưng hạnh phúc tan vỡ kia cũng chẳng thể vẹn nguyên. Bi kịch vẫn là bi kịch. Và không có gì đảm bảo rằng bi kịch đó sẽ không xảy ra nếu nàng quay trở về.
- Có nhiều ý kiến về nguyên nhân khiến Vũ Nương tự vẫn. Đầu tiên là Trương Sinh – người chồng vũ phu, hay ghen. Chàng ta không cho nàng một cơ hội giải thích, chỉ đánh đập rồi đuổi nàng đi.
- Nhưng nhìn rộng hơn về xã hội lúc bấy giờ, nếu không có chiến tranh phi nghĩa kia liệu có khoảng thời gian xa cách giữa hai vợ chồng. Liệu sẽ có sự xuất hiện của cái bóng và nảy sinh những mâu thuẫn.
- Phân tích nguyên nhân cái chết của Vũ Nương để thấy được sự tha hóa của xã hội
- Có thể thấy nguyên nhân sâu xa dẫn đến cái chết của Vũ Nương chính là xã hội phong kiến mục nát, thối rữa. Chúng tàn sát con người bằng cuộc chiến phi nghĩa. Chúng hằn sâu vào tâm trí con người tư tưởng trọng nam khinh nữ, để người phụ nữ không có quyền lên tiếng.
- Sự ra đi của Vũ Nương chính là lời tố cáo mạnh mẽ và đanh thép, tấn công thẳng vào chế độ phong kiến đương thời. Qua đó, ta cũng thấy được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Dữ.
- Trong đoạn trích này, Nguyễn Dữ đã rất tài tình khi sử dụng nghệ thuật xây dựng nhân vật một cách sáng tạo. Vũ Nương được khắc họa tâm lý, phẩm chất, tính cách thông qua từng chi tiết nhỏ như đối thoại, lời tự bạch.
- Đặc sắc hơn cả đó là tác giả đã sử dụng yếu tố kì ảo giúp tô đậm nét đẹp của Vũ Nương. Nàng nặng tình, coi trọng nhân phẩm, đặc biệt vị tha. Dù đang ở một thế giới khác nhưng nàng vẫn mong muốn được khôi phục danh dự.
1.3 Kết bài
- Cảm nhận về nghệ thuật trong tác phẩm và ngòi bút nhân đạo của Nguyễn Dữ
- Nghệ thuật xây dựng cốt truyện độc đáo, hấp dẫn đã giúp Nguyễn Dữ khắc họa chân dung một Vũ Nương đẹp đẽ, đức hạnh, là người đại diện cho phụ nữ trong thời phong kiến.
- Nhưng qua đó, ta cũng thấy được số phận bi thảm của những người bị xã hội chèn ép, áp bức. Đồng thời, ta còn cảm nhận được sự thương cảm của Nguyễn Dữ với số phận của họ và lời tố cáo về xã hội phong kiến đã không màng mọi cách để đẩy con người vào bước đường cùng.
2. Bài phân tích nhân vật Vũ Nương số 2
2.1 Mở bài:
- Dẫn dắt
- Đề tài người phụ nữ đã là một chủ đề vô cùng quen thuộc trong văn học. Nền văn học trung đại Việt Nam với nhiều tác giả, những cây bút nổi tiếng, tiêu biểu cho mảng đề tài này như: Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm,… Và không thể không nhắc đến Nguyễn Dữ – một gương mặt tiêu biểu với những câu chữ viết đầy nhân văn. Và điều này được thể hiện rõ nhất qua tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” với hình ảnh nhân vật Vũ Nương.
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ
- Nguyễn Dữ được đánh giá là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của nền văn học thế kỷ XVI. Ông sống trong xã hội chế độ phong kiến đang ở giai đoạn suy vong. Các cuộc chiến tranh giữa những tập đoàn phong kiến xảy ra triền miên, gây đau khổ cho nhân dân.
- Vốn không đồng tình với sự bất công, thối nát của xã hội này, ông đã thể hiện lời tố cáo, lên án của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục với hai mươi truyện ngắn. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những đoạn trích tiêu biểu của tập truyện kia.
2.2 Thân bài
- Khái quát về nhân vật Vũ Nương
- Ngay từ mở đầu tác phẩm, Vũ Nương đã hiện lên với hình ảnh một người con gái thùy mị, nết na cùng tư dung tốt đẹp. Những phẩm hạnh ấy được bộc lộ trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.
- Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương khi vừa lấy chồng
- Trong cuộc sống gia đình, Vũ Nương là người vợ hiền thục. Trường Sinh – chồng của nàng là con trai nhà hào phú, ít học nhưng tính tình lại đa nghi, hay ghen quá mức. Hiểu tính chồng, nàng luôn giữ gìn cho gia đình khỏi bất hòa, trong ấm, ngoài êm. Vũ Nương là một người vợ hiền, luôn mong muốn một cuộc sống hạnh phúc.
- Nhưng yên bình chưa được bao lâu, chiến tranh đã xảy ra. Trương Sinh phải đi lính, gia đình phải ly tán. Nhưng lúc này, ta lại càng thấy được những phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương. Lời dặn dò chồng trước lúc đi chinh chiến của nàng đã khiến mọi người xúc động: chỉ xin ngày về mang theo hai chữ bình yên. Vũ Nương chẳng hề ham danh vọng mà luôn khát khao một hạnh phúc gia đình giản dị, bình yên.
- Không chỉ vậy, nàng còn hiểu cho nỗi vất vả, gian lao, thông cảm cho chồng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường, giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao…” Thế rồi, nàng bày tỏ nỗi nhớ nhung khôn xiết của mình: nhìn trăng soi thành của, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa…
- Phân tích phẩm chất của Vũ Nương khi chăm sóc mẹ chồng
- Khi xa chồng, Vũ Nương luôn làm tròn bổn phận của người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ hết lòng thương con. Nàng sinh bé Đản, quán xuyến công việc trong gia đình, chăm sóc mẹ già lúc ốm đau.
- Qua lời trăng trối của người mẹ trước lúc giã từ, ta có thể thấy được tình cảm của Vũ Nương với mẹ chồng, khẳng định nhân cách lớn lao của nàng đối với gia đình: “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con không phụ mẹ”. Ở Vũ Nương, mọi phẩm chất cao quý, truyền thống tốt đẹp của người phụ nữ đều thể hiện ở nàng.
- Phân tích bi kịch của Vũ Nương
- Nhưng người phụ nữ như vậy lại chẳng thể được hưởng hạnh phúc. Thực tế oan trái đã đẩy nàng vào cảnh ngộ bất hạnh, éo le, oan khuất. Vũ Nương vốn mực rất thủy chung nay bị nghi oan thất tiết chỉ vì một lời nói ngây thơ từ một đứa trẻ.
- Và oan trái hơn là Trương Sinh lại không nghe một lời giải thích từ nàng. Chàng ta hắt hủi, đánh đập, đuổi đi một cách hồ đồ. Những lời bênh vực của hàng xóm cùng lời phân trần thê thảm cũng chẳng thể cứu được nàng khởi sự nhục nhã, ê chề này.
- Nàng cứ vậy là bị gán cho tội lớn nhất đối với đức hạnh một người phụ nữ. Gia đình mà nàng hết lòng vun vén giờ đây đã tan vỡ. Nàng chỉ còn biết kêu oan với trời rồi trẫm mình tự vẫn “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đỡ nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”.
- Mọi lời biện minh đều không qua được sự mù quáng của thói ghen tuông, độc đoán, gia trưởng hồ đồ kia. Vũ Nương chịu tủi nhục, đau đớn, bất lực. Nàng quả thực không còn nơi nào để kêu oan, giải oan cho chính mình. “Kể bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu… Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió… đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
- Nàng luôn ý thức sâu sắc về phẩm giá của người phụ nữ. Nàng thà rằng phải chết để bảo vệ danh dự chứ không chịu sống nhục. Người phụ nữ ấy thật bất hạnh làm sao!
- Phân tích nghệ thuật xây dựng tình tiết truyện của Nguyễn Dữ
- Nguyễn Dữ đã sử dụng nghệ thuật xây dựng tình tiết truyện đầy đặc sắc, kịch tính. Tác giả đã mang đến hình ảnh một người phụ nữ vẹn toàn nhưng lại gặp phải bi kịch và phải giải thoát mình bằng cái chết.
- Nhưng chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Dữ tiếp tục đẩy câu chuyện lên cao trào, tạo ra một nút thắt cho toàn bộ cốt truyện. Chỉ khi Trương Sinh nhìn thấy cái bóng, chàng mới hiểu ra nỗi oan khuất của vợ. Chỉ là cái bóng mờ nhạt nhưng lại có thể quyết định số phận của một đời người. Cái bóng nhỏ bé ấy đã đẩy một người phụ nữ nết na vào một bi kịch không lối thoát.
- Khi gặp Trương Sinh, nàng không hề cất lời oán trách mà cảm thông cho chàng. Vũ Nương càng bao dung bao nhiêu thì người đọc lại càng đồng cảm với nàng bấy nhiêu. Chính lòng bao dung nhân hậu ấy của nàng khiến số phận của nàng lại càng đáng buồn hơn cả.
- Phân tích vẻ đẹp phẩm chất của Vũ Nương khi được giải oan
- Sau khi được giải oan, Vũ Nương mong muốn trở về, nhưng nàng vẫn không thể quên được lời ước hẹn với Linh Phi. Âm dương vốn đã cách biệt, còn lời ước hẹn kia sao có thể làm trái. Vậy là nàng đành chấp nhận từ bỏ hạnh phúc của mình. Hiện lên lúc này, Vũ Nương là một con người thật nghĩa khí.
2.3 Kết bài
- Nêu cảm nhận về tác phẩm
- Bằng việc xây dựng nhân vật Vũ Nương, nhà văn đã bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc dành cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Qua đó, ông cũng muốn lên án, phê phán xã hội phong kiến thối nát đã đẩy cuộc đời con người vào bi kịch, bước đường cùng.
3. Bài phân tích nhân vật Vũ Nương số 3
3.1 Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác phẩm và nhân vật Vũ Nương
- Đoạn trích “Chuyện người con gái Nam Xương” được trích trong tác phẩm “Truyền kì mạn lục” – áng văn xuôi bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ. Đây là một kiệt tác văn chương cổ được ca ngợi là “thiên cổ kì bút”.
- Truyện kể về câu chuyện truyền kì với nhiều yếu tố hoang đường được lưu truyền trong dân gian về bi kịch của gia đình ở Nam Xương. Đây là thời gian mà xã hội có đầy những biến động, loạn lạc, cuối chế độ xã hội phong kiến.
- Nhân vật Vũ Nương là người con gái với nhiều phẩm chất tốt đẹp, đại diện cho đức hạnh của người phụ nữ xưa nhưng lại phải chịu số mệnh vô cùng đáng thương.
3.2 Thân bài
- Giới thiệu về nhân vật Vũ Nương
- Tên nàng là Vũ Thị Thiết, quê ở vùng Nam Xương, thuộc phủ Lý Nhân nay là tỉnh Hà Nam. Nàng xuất thân trong một gia đình nghèo khó nhưng lại sở hữu nhan sắc và đức hạnh khiến người khác ngưỡng mộ: “tính đã thùy mị, nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp”.
- Phân tích phẩm chất thủy chung của Vũ Nương
- Vốn là một cô gái danh giá nên nàng được nhiều người yêu mến. Trong đó có Trương Sinh – con nhà hào phú “mến vì dung hạnh” đã xin với mẹ mang trăm lạng vàng tới cưới về. Trong đạo vợ chồng, Vũ Nương là người phụ nữ thông minh, đôn hậu. Và nàng đã khôn khéo thể hiện đức tính của mình ở mọi hoàn cảnh khác nhau.
- Biết chồng là người có tính đa nghi, nàng luôn giữ gìn khuôn phép, vun vén cho gia đình. Nàng không để phải xảy ra cảnh vợ chồng bất hòa. Nhưng sống giữa thời loạn lạc, Trương Sinh phải tòng quân đi chinh chiến ở nơi biên ải xa xôi. Cảnh tượng chia xa này, phẩm chất đức hạnh của Vũ Nương lại càng được hiện rõ hơn.
- Buổi tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy chúc chồng “được hai chữ bình yên”: nàng chẳng mong được đeo ấn phong hầu mặc áo gấm trở về quê cũ… Ước mong của nàng sao giản dị, bình yên thế. Nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình hơn bất cứ thứ công danh phù phiếm nào trên đời.
- Những năm tháng xa cách, nàng nhớ chồng không nguôi: “… mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Đây cũng là tâm trạng nhớ nhung đau buồn chung của những người chinh phụ trong thời buổi loạn lạc:
… “Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong…”
(Chinh phụ ngâm)
- Trước tâm trạng này, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi khổ đau nhớ nhung vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung của Vũ Nương. Nàng là người phụ nữ đảm đang, giàu tình yêu thương.
- Phân tích phẩm chất hiếu thảo của Vũ Nương
- Chồng ra trận được 1 tuần, nàng sinh ra một đứa con trai đặt tên là Đản. Khi đó, mẹ chồng lại già yếu, ốm đau khiến nàng phải chạy vạy thuốc thang, “ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Một bên phụng dưỡng mẹ già, một bên chăm sóc con thơ.
- Đến khi mẹ chồng qua đời, nàng đã hết lời thương xót. Việc ma chay, lễ tế cũng được lo liệu, tổ chức chu đáo tự như “đối với cha mẹ đẻ mình”. Chỉ với những chi tiết rất nhỏ ấy, Vũ Nương đã hiện lên là một người vợ đảm đang thủy chung, người mẹ hiền đôn hậu. Đó là hình mẫu phụ nữ lý tưởng trong xã hội phong kiến xưa.
- Phân tích bi kịch của Vũ Nương
- Qua thời gian, “việc quân kết thúc” Trương Sinh trở về từ miền chinh chiến. Tưởng như lúc này Vũ Nương sẽ được hưởng hạnh phúc, vợ chồng sum họp. Vậy mà, chỉ vì một chiếc bóng qua lời của đứa con thơ mà Trương Sinh đã sinh nghi, “máng nhiếc” và “đánh đuổi đi”.
- Vốn là một kẻ vô lại, hồ đồ vũ phu, Trương Sinh đã bỏ ngoài tai mọi lời bày tỏ, giãi bày của vợ. Vu oan cho vợ là người phụ nữ “mất nết hư ân”, nàng bị chính chồng mình đẩy vào bi kịch. Để rồi, nàng phải nhảy xuống sông Hoàng Giang tự vẫn để tỏ rõ sự trong sạch của mình “đoan trang giữ tiết, minh bạch gìn lòng”, mãi mãi soi tỏ với dời “vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin là cỏ Ngu Mĩ”.
- Bi kịch của Vũ Nương là bi kịch gia đình từ chuyện chồng con đến bi kịch lớn trong xã hội. Mà nguyên nhân sâu xa của chuỗi bi kịch này là do chiến tranh loạn lạc. Thật đau lòng biết bao!.
- Chỉ một thời gian ngắn sau khi Vũ Nương tự tử, một đêm khuya dưới ngọn đèn, chợt đứa con nói rằng: “Cha Đản lại đến kia kìa!”. Lúc bấy giờ Trương Sinh mới “tỉnh ngộ thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc đã trót rồi.” Người đọc cũng chỉ biết thở dài cùng xót xa cho người con gái Nam Xương bạc mệnh. Vũ Nương tự tử nhưng chẳng hề oán than chồng, con “rày xin chén nước cho người thác oan” (Truyện Kiều).
- Phân tích yếu tố kì ảo trong truyện
- Phần cuối truyện, Nguyễn Dữ đã đan xen vào yếu tố kì ảo, hoang đường. Nào là Phan Lang nằm thấy mộng, thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Phan Lang được biếu một con rùa mai xanh nhưng không giết thịt mà đem thả xuống sông.
- Phan Lan bị chết đuối, dạt vào động rùa ở hải đảo được Linh Phi vợ của vua biển Nam Hải cứu giúp cho sống lại. Linh phi mở tiệc ở gác Triêu Dương để thiết đãi ân nhân ngày xưa từng cứu mình là Phan Lang. Tình cờ, Phan Lang gặp lại Vũ Nương và kể cho nàng nghe về chuyện của gia đình nàng. Vũ Nương bật khóc khi được nhắc đến nhà cửa, phần mộ của tiền nhân.
- Chi tiết Vũ Nương gửi Phan Lang chiếc hoa tai vàng và dặn chồng lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang như tạo ra một bước ngoặt. Vũ Nương ngồi trên kiệu hoa, phía sau có tới năm mươi chiếc xe cờ tán võng lọng rực rỡ đầy sông. Hình ảnh Vũ Nương lúc ẩn, lúc hiện,… nhưng lại càng tô đậm nỗi đau của người phụ nữ bạc mệnh này. Đó là những lễ giáo phong kiến vô nhân đạo. Là lời tố cáo đanh thép mà Nguyễn Dữ muốn gửi gắm.
- Câu nói của ma Vũ Nương giữa dòng sông vọng vào: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa” đã làm cho giá trị nhân đạo của truyện thêm phần bi thiết. Nỗi oan của Vũ Nương đã được hóa giải. Nhưng nàng lại chẳng thể trở về bởi âm – dương đã cách trở đôi đường. Nàng vẫn không có được hạnh phúc, không thể làm tròn trách nhiệm của người vợ, người mẹ.
3.3 Kết bài
- Nêu cảm nhận về vẻ đẹp phẩm chất của nhân vật Vũ Nương
- Qua phân tích, có thể thấy được Vũ Nương là người con gái dung hạnh mà bạc mệnh. Nguyễn Dư đã kể lại cuộc đời oan khổ của nàng với những câu từ xót thương sâu sắc. Tuy sử dụng yếu tố hoang đường nhưng áng văn của “Chuyện người con gái Nam Xương” vẫn mang đầy tính nhân đạo.
- Vũ Nương là nhân vật điển hình cho bi kịch của người phụ nữ trong gia đình, xã hội ở thời kỳ phong kiến. Đến đây, người đọc lại càng thêm xúc động khi nhớ đến vần thơ của vua Lê Thánh Tông trong “Lại bài viết Vũ Thị”
… “Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng lọ mấy đàn tràng…”
4. Bài phân tích nhân vật Vũ Nương số 4
4.1 Mở bài:
- Dẫn dắt
- Trong kho tàng văn học dân gian, văn học viết của nước ta, người phụ nữ luôn nổi bật lên với những giá trị cao đẹp, đạo đức, phẩm chất tốt. Nhưng ở xã hội phong kiến đầy rẫy những bất công, oan trái, họ vẫn phải chịu những đau khổ, bất hạnh.
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích
- Đọc “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ta càng thấy được nỗi đau đó. Đó là nỗi oan khuất và phải tìm tới cái chết thương tâm để giải oan qua hình ảnh của nhân vật Vũ Nương.
4.2 Thân bài
- Phân tích vẻ đẹp thủy chung của Vũ Nương
- Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Dữ đã giới thiệu một nhân vật phụ nữ đẹp người, đẹp nết – Vũ Nương. Nàng có tư dung đẹp, tính tình hiền dịu, nết na. Dù làm vợ Trương Sinh – một người chồng đa nghi, hay ghen, nàng vẫn luôn giữ gìn khuôn phép, không để xảy ra cảnh bất hòa trong gia đình.
- Hạnh phúc vợ chồng chưa được bao lâu thì chiến tranh xảy ra, Trương Sinh phải ra trận chinh chiến. Nàng tiễn chồng mà tâm trạng vô cùng đau khổ. Lời nói với chồng trong giờ phút chia tay thật chân tình và cảm động biết bao. Từng lời của nàng đều khiến cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. “Nàng chẳng cầu mong chồng đeo ấn phong hầu mà chỉ cầu xin chồng trở về bình yên vô sự”. Nguyện vọng ấy thật giản dị, sâu sắc.
- Phân tích phẩm chất hiếu thảo của nàng
- Suốt những năm xa chồng, nàng ở nhà luôn một tay lo toan mọi công việc gia đình. Nuôi con từ trứng nước đến khi lớn khôn cũng không có chồng bên cạnh. Không chỉ vậy, nàng còn là người dâu hiếu thảo, rất mực lo lắng cho mẹ chồng khi ốm đau. “Hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”.
- Khi bà cụ qua đời, nàng hết lòng thương xót, lo ma chay, lễ tế một cách chu toàn. Sự đối đãi với mẹ chồng hết lòng này chẳng khác nào nàng đang đối xử với cha mẹ mình vậy. Tóm lại, Vũ Nương là một người phụ nữ vẹn toàn, mang đầy đủ những phẩm chất đạo đức cao quý của người vợ, người mẹ, người con. Người phụ nữ như vậy xứng đáng được hưởng hạnh phúc, sự yêu thương từ gia đình đầm ấm.
- Phân tích bi kịch của Vũ Nương
- Và rồi, chiến tranh kết thúc, chồng trở về. Niềm vui ngắn ngủi thoáng chống trôi qua kéo theo bi kịch đến. Trương Sinh – một kẻ vô học, thô lỗ, đa nghi hay ghen đã tin lời một đứa trẻ thơ ngây. Hắn không hỏi rõ ngọn ngành mà vội vàng nghi ngờ sự thủy chung của vợ mình.
- Vũ Nương đau khổ, khóc lóc, bày tỏ nỗi oan nhưng chẳng được lắng nghe. Thậm chí nàng còn bị mắng, nhiếc, đánh đuổi đi. Ngay cả những loài biện minh, nói giúp của họ hàng làng xóm cũng chẳng giúp ích được nàng. Để rồi, chỉ để minh oan cho mình, nàng đã chọn cái chết. Nàng chọn giãi bày sự trong trắng, thủy chung của mình bằng cách tự vẫn trên sông Hoàng Giang.
- Thật tội nghiệp biết bao, ba năm cách trở, luôn giữ gìn một tiết vậy mà Vũ Nương lại bị nghi oan ngay khi chồng vừa trở về. Một con người với phẩm hạnh như thế lại bị chuốc nhơ, mang tiếng xấu. Chính người chồng mà Vũ Nương luôn thương nhớ đã dồn nàng đến bước đường cùng. Thương nàng bao nhiêu, người đời càng trách giận Trương Sinh phũ phàng bấy nhiêu:
Khá trách chàng Trương Sinh khéo phũ phàng
(“Lại bài Viếng Vũ Thị”của Lê Thánh Tông)
- Cho đến ngay cả khi chết rồi, ở dưới thủy cung, nàng vẫn ôm mối hận bị chồng ruồng rẫy. Nàng nghĩ “Thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa”. Nhưng có lúc nàng lại thấy băn khoăn: “Không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa”. Nàng luôn tha thiết được trở về quê hương đoàn tụ với chồng và được giải nỗi oan xưa. Nhưng điều này xa vời thật, âm dương cách biệt, nàng “chẳng thể trở về nhân gian được nữa”.
- Phân tích hiện thực xã hội phong kiến lúc bấy giờ
- Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ đức hạnh, hiền thục như Vũ Nương đều chung số phận bi đát, đau khổ. Câu chuyện về cái chết thương tâm của Vũ Nương càng làm ta cảm thông hơn với nỗi đau của những người phụ nữ trong xã hội cũ.
- Tác phẩm là tiếng nói lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa đã làm tan vỡ hạnh phúc của nhiều đôi lứa, gia đình. Đặc biệt, đó còn là tiếng kêu khóc trước số phận bi đát, bị dồn ép của những người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh như Vũ Nương.
4.3 Kết bài
- Nêu cảm nhận về tác phẩm
Dựa trên một cốt truyện dân gian, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên một tác phẩm vô cùng đặc sắc, mang lại nhiều giá trị to lớn cho nền văn học. Mặc dù có nhiều yếu tố hoang đường nhưng “Chuyện người con gái Nam Xương” đã để lại cho người đọc những ấn tượng không phai mờ.
Nhân vật Vũ Nương là một hiện thân của số phận đau khổ, là sự đồng cảm của tác giả với sự bất hạnh đó. Đồng thời, đây cũng là lời tố cáo, lên án xã hội mục nát, thối rữa chà đạp lên quyền sống của con người. Hy vọng với những bài tham khảo phân tích nhân vật Vũ Nương trên đây có thể giúp bạn học tốt và cảm nhận những khía cạnh khác của tác phẩm.
Trả lời