Bài thơ “Vội vàng” mang đến một tình yêu mãnh liệt đối với cuộc đời, sự sống và quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu về thời gian. Từng câu thơ trong Vội Vàng đều ẩn chứa những ý nghĩa sâu sắc, cần đọc và thấu hiểu một cách trọn vẹn. Để có thể cảm nhận được lời giục giã sống hết mình cho tuổi trẻ ấy, mời các bạn tham khảo những bài phân tích bài thơ “Vội Vàng” hay nhất dưới đây.
Xem Thêm Phân tích bài thơ Từ ấy của Tố Hữu
Xem Thêm Phân Tích tác Phẩm Trao Duyên của Nguyễn Du
Xem thêm Phân Tích Tác Phẩm Viếng Lăng Bác của Viễn phương
Xem Thêm Phân tích đây thôn vỹ dạ của Hàn Mạc tử
Table of Contents
1. “Vội Vàng” của Xuân Diệu là một hồn thơ tha thiết, rạo rực và băn khoăn
1.1 Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Xuân Diệu là nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào thơ mới năm 1932-1945. Nhà phê bình Hoài Thanh đã viết trong “Thi nhân Việt Nam”: “Với Thế Lữ, thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới”. Bài thơ “Vội vàng” là minh chứng cho nhận xét thiên tài đó.
1.2 Thân bài
Phân tích tình yêu thiên nhiên của Xuân Diệu
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
- Bốn câu thơ mở đầu thể hiện cái mong ước muốn giữ mãi vẻ đẹp của những chốn trần gian. Rồi nhà thơ cầm tay chúng ta và náo nức giới thiệu những cảnh thật đáng yêu đang phô bày ra trước mắt:
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
- Một bức tranh tuyệt tác của tạo hóa có màu sắc “xanh rì” tươi mát, có âm thanh vui của “khúc tình si” và chứa chan ánh sáng nhẹ như “chớp hàng mi”. Trái đất ta đang sống chính xác là một Thiên đường! Ở thiên đường đó, hình ảnh đáng yêu nhất phải kể đến là:
“ Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
- Nghệ thuật xưa vốn coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp, cho nên Nguyễn Du viết: “Làn thu thủy, nét xuân sơn”.
- Vẻ đẹp đôi mắt nàng Kiều được so sánh như làn nước mùa thu; lông mày nàng Kiều sánh ngang với nét núi thanh tú của mùa xuân. Nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu thì ngược lại, ông ư coi con người là chuẩn của cái đẹp, cho nên mới có câu thơ xuất thần đó đem so sánh thiên nhiên với con người. Đây là một phép so sánh vô cùng độc đáo. Tháng giêng như được biến tấu thành một món ăn để cảm nhận vị ngọt, vừa xa mà lại gần, cuốn hút khó cưỡng.
- Đang vui nhà thơ bỗng giật mình:
“Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”.
- Nhưng chính Xuân Diệu cũng nhận ra được sự thật đau đớn với nỗi sợ trong từng dòng thơ của mình. Không có gì là tồn tại mãi mãi và cả mùa xuân cũng vậy:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân chết nghĩa là tôi cũng mất
- Xuân ở đây mang hai nghĩa: mùa xuân – mùa đẹp nhất trong năm, vừa là tuổi xuân – tuổi đẹp nhất của đời người. Cụm từ “Nghĩa là” được lặp lại ba lần như một sự hoảng hốt khi tác giả hiểu ra một quy luật: tuổi xuân chỉ có một và con người không thể trẻ mãi đề tận hưởng niềm vui sướng tại chốn “vườn trần” này.
- Nhà thơ cất tiếng hỏi cảnh vật thiên nhiên:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa
- Không chỉ tác giả mà ngay chính thiên nhiên tươi thắm kia cũng đang tiếc nuối mùa xuân sẽ đi qua, sẽ trôi qua, thời gian một đi không trở lại.
- Con người phải làm gì trước quy luật nghiệt ngã đó của tạo hóa? Cái ước mong “tắt nắng”, “buộc gió” hoàn toàn không thể thực hiện được. Tác giả đã gợi ý cho chúng ta một lối sáng mới mẻ:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi hương, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Trong đoạn thơ này, cảm xúc của tác giả đã đạt đến cao trào, nồng cháy nhất, hay nhất trong tác phẩm
- Tác giả đã nhân cách hóa thiên nhiên, làm cho thiên nhiên hiện lên như một người con gái đẹp đầy hấp dẫn. Cách dùng đại từ đã có sự thay đổi. Phần mở đầu tác giả dùng đại từ “tôi” – đại từ nhân xưng số ít. Khi chuyển sang cảm xúc đồng điệu tâm hồn đối với bạn đọc, đại từ ấy đã không còn sự dè dặt và được chuyển sang số nhiều. Sự “vội vàng” của thi nhân cũng phát triển dần qua cách sử dụng một loạt động từ: “ôm” đã thân thiết, nhưng “riết” còn mạnh mẽ hơn đến “say” thì đã nồng nàn, và đến “thâu” thì đã thu tất cả mùa xuân, tuổi trẻ, tình yêu vào trong tâm hồn mình.
- Câu kết đã gói trọn tâm tình của thi nhân:
“Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Nghệ thuật làm thơ khó nhất là viết câu cuối cùng. Nó phải nâng cao xúc cảm phải chứng tỏ rằng sự vận động của tứ thơ đến đây là hết không thể viết thêm một câu nào nữa. Xuân Diệu đã thật cao tay khi viết câu thơ trên. “Cần” miêu tả tột đỉnh của sự cuồng nhiệt, sự nồng cháy của cảm xúc. Câu thơ cảm thán như tiếng kêu lấp đầy sự sung sướng, thỏa mãn trong tâm hồn vì đã “chếch choáng”, “đã đầy”, đã “no nê” khoái lạc của thiên đường trên mặt đất.
- Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều điệp từ: “ta muốn”, “và”, “cho” làm cho nhịp thơ đoạn cuối trở nên dồn dập,diễn đạt rất đúng tâm trạng của con người “vội vàng”.
1.3 Kết bài
- Nêu cảm nhận về bài thơ hồn thơ của Xuân Diệu
Tác phẩm này quả là một bài thơ hay, rất tiêu biểu cho phong cách tài hoa, phong tình lãng mạn của Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất của phong trào thơ mới. “Vội vàng’’ bộc lộ một quan điểm sống lành mạnh. Đó là tình yêu đời, là cách sống hết mình, sống chân thành vì một cuộc đời đầy ý nghĩa. Quả thật, “Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này’’ (Hoài Thanh).
2. Phân tích bài thơ “Vội vàng” để thấy quan niệm sống của Xuân Diệu
2.1 Mở bài
Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
Lầu thơ của Xuân Diệu được xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian. Đã hơn hai mươi năm nhà thơ giã từ cuộc sống và đi vào cõi hư vô, nhưng những tác phẩm giá trị văn học của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ học sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm với đời trong bài thơ Vội vàng. Đó là niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người tràn mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kỳ!
Làm thơ xuân vốn là một truyền thống của thi ca Việt Nam, mỗi nét xuân trong thơ ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. Vội vàng chính là lời tâm tình của trái tim tuổi hai mươi đang căng tràn nhựa sống.
2.2 Thân bài
Phân tích bài thơ để thấy được quan niệm sống của Xuân Diệu
Bài thơ mở đầu bằng những ước muốn thật kì lạ:
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
- Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ! Anh ta ước muốn, đòi hỏi những điều vượt ra khỏi quy luật thông thường của tạo hóa.. Nhưng quy luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ góc nhìn của cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: Giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ toàn bộ màu sắc và hương vị của sự sống. Trong một không gian ngập đầy nắng gió ấy, điều nhà thơ “muốn” đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: Nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia ly, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:
Đương lúc hoàng hôn xuống
Là giờ viễn khách đi
Nước đượm màu li biệt
Trời vương hương biệt ly
(Viễn khách)
- Ý niệm về thời gian là nỗi lo sợ cho tương lai “Đời trôi chảy lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân. Trong sự mong đợi của nhà thơ, mùa xuân đến, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sống của không gian:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa”
- Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao, quyến luyến đến thế. Xuân không còn là bóng dáng mà được hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm”, rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phất”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng”. Sức sống của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quít giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những dòng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muốn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế. Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc: Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần.
- Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sống của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muốn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sống vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sống vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống! Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
- Nhà thơ cắt nghĩa cái vội vàng ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia ly đã hiện hình rõ nét:
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất”
- Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lý về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giới của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa lại
Ngẫm trời đất thật vô cùng
Riêng lòng đau mà lệ chảy
(Bản dịch Đăng U Châu đài ca)
- Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: cái hữu hạn của đời người – cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sống, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết. Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muốn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của quy luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sống đã mất ý nghĩa. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại – Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “bâng khuâng”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia ly bi tráng với mùa xuân:
Mùi tháng, năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…
- Những cuộc chia ly nổi tiếng trong lịch sử văn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” (Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động lưu luyến nhưng đó là cảnh chia ly giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia ly, từ thời gian “tháng năm”, không gian “sông núi than” đến “cơn gió xinh hờn tủi”, chim “đứt tiếng”… Cảm quan lãng mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa”, tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại.
- Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm ly biệt” này trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng:
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
- Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của đam mê và khát khao vượt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp – tìm về ý nghĩa của sự sống. Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sống cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng cuống quýt kia là sự cuồng nhiệt với đời:
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muốn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sống thành thật với chính mình, sống hết mình. Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sống, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sống dồi dào của tuổi hai mươi:
Trong hơi thở chót dâng trời đất
Cũng vẫn si tình đến ngất ngư
(Không đề – 1983)
2.3 Kết bài
Nêu cảm nhận về tác phẩm
Bài thơ Vội vàng đã thể hiện tinh tế những giác quan nhạy bén của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sống của ông về ý nghĩa sự sống đời người. Con Người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sống tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sống hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong Vội vàng cũng là tâm niệm suốt đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm.
3. Bức tranh thông điệp mùa xuân trong “Vội Vàng” của Xuân Diệu
3.1 Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng ruột lần một hồn thơ rộng lớn như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên … và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu (Thi nhân Việt Nam).
Xuân Diệu đã thể hiện đầy đủ nhất cho ý thức cá nhân của cái tôi thơ mới và cũng mang đậm bản sắc riêng. Trong số những bài thơ của ông, chúng ta không thể không nhắc đến Vội vàng. Bài thơ tiêu biểu cho sự bùng nổ mãnh liệt của cái tôi Xuân Diệu, in dấu khá đậm cho hồn thơ yêu đời, ham sống. Và quan trọng hơn thế nữa, qua Vội vàng chúng ta nhận ra một quan niệm sống rất mới mẻ – bức thông điệp mà nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc.
3.2 Thân bài
- Vội vàng? Cái tên nghe đã rất Xuân Diệu! Đây là một triết lí sống và cũng là tâm thế sống của nhà thơ: Sống nhanh chóng, khẩn trương, mở rộng lòng mình để ôm ghì, thâu tóm tất cả. Đã hơn một lần ta bắt gặp Xuân Diệu hối hả, cuống quýt, giục giã:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ
Em, em ơi, tình non sắp già rồi.
- Vấn đề thời gian, mùa xuân, tình yêu tuổi trẻ luôn thường trực, trở đi trở lại trong nhiều trang thơ của Xuân Diệu. Ở Vội vàng ông đã nhận ra một thiên đường ngay trên mặt đất, nhà thơ yêu cuộc sống trần thế xung quanh và tìm thấy trong cuộc sống đó biết bao điều hấp dẫn, đáng sống và biết tận hưởng những gì mà cuộc sống ban tặng. Đây là một quan niệm sống rất người, mang ý nghĩa tích cực và có giá trị nhân văn sâu sắc. Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến người đọc hãy sống hết mình khi đang còn trẻ tuổi, đừng để thời gian trôi đi phí hoài. Hãy sống gấp gáp để tận hưởng cuộc sống tươi đẹp. Hãy luôn giữ cho mình mùa xuân, tình yêu của tuổi trẻ.
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm.
- Bức thông điệp mà Xuân Diệu gửi đến cho người đọc được triển khai qua từng phần của bài thơ, theo mạch cảm xúc trong tâm hồn thi sĩ. Ngay từ đầu chúng ta đã bắt gặp một thái độ sống rất ngông, rất táo bạo.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
- Ý tưởng tắt nắng, buộc gió quả thật táo bạo, độc đáo mà chỉ Xuân Diệu mới nghĩ ra, xuất phát từ lòng yêu cuộc sống, thèm sống Xuân Diệu muốn tắt, buộc nắng và gió cũng là để giữ lại cái đẹp, cái tươi thắm của sự vật, của màu, của hương. Xuân Diệu muốn thời gian là tĩnh tại mặc dù ông không nhìn đời với con mắt tỉnh. Cái vô lý đó chính là sự khát khao sống đến vô biên và tột cùng. Nhà thơ muốn níu giữ thời gian, cuộc sống ấy cho riêng mình.
- Mọi chuyện đều có nguyên do của nó! Xuân Diệu thiết tha với cuộc sống như thế bởi ông đã tìm ra một thiên đường trên mặt đất. Cuộc sống đẹp nhất là cuộc sống trần thế. Với Thế Lữ thi nhân ta còn nuôi giấc mộng lên tiên, một giấc mộng rất xưa. Xuân Diệu đốt cảnh Bồng Lai và xua ai nấy về hạ giới (Thi nhân Việt Nam). Cuộc sống xung quanh ta là đẹp nhất, vậy thì dại gì mà không tận hưởng. Nhà thơ nhìn mùa xuân với tất cả sự say mê, cuồng nhiệt vồ vập:
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
- Này đây., này đây… này đây… Tất cả như đang phơi bày ra trước mắt nhà thơ. Bức tranh thiên nhiên đang độ viên mãn, tràn đầy, chứa chan xuân tình, vừa gần gũi thân quen lại vừa mượt mà đầy sức sống. Xuân Diệu như đang vồ vập, ngấu nghiến, thâu tóm tất cả. Nhà thơ như con ong hút mật lạc vào vườn hoa đầy hương sắc. Với ông cái gì cũng hấp dẫn mới lạ. Và bằng cặp mắt xanh non của cái tôi cá nhân Xuân Diệu còn phát hiện ra thế giới này đẹp nhất, mê hồn nhất vẫn là vì có con người. Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu. Nhà thơ lấy con người làm thước đo của cái đẹp. Cuộc sống trần thế đẹp nhất vào lúc xuân thì. Và con người chỉ tận hưởng được lúc đang còn trẻ. Song tuổi trẻ thì tàn phai theo thời gian, vì thế mà ông phải sống vội vàng, gấp gáp.
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
- Nhà thơ tận hưởng cuộc sống một cách gấp gáp, vồ vập bởi một phút giây qua đi vĩnh viễn không trở lại. Mất mát sẽ đến nếu ta không chớp thời cơ. Có lẽ vì thế mà Xuân Diệu không chờ mùa hạ đến mới nhớ xuân mà ôm riết mùa xuân lúc tràn đầy, viên mãn nhất.
- Ham sống, khát sống, Xuân Diệu càng bàn khoăn hơn trước cuộc đời, thời gian. Ông đã nhận ra quy luật tuyến tính của thời gian, chống lại quy luật tuần hoàn của các cụ ngày xưa. Mỗi phút giây qua đi sẽ không bao giờ trở lại, tuổi trẻ cũng chỉ đến một lần. Nhà thơ mở lòng ra để yêu đời, yêu cuộc sống nhưng không được đời bù đắp, vì thế mà ông băn khoăn buồn chán cho thân phận của mình. Cảnh vật thiên nhiên giờ đây cũng mang đầy tâm trạng buồn bã, bàn khoăn, lo sợ…
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
- Nhận thức ra quy luật của thời gian, khát khao sống đến mãnh liệt. Xuân Diệu đã ôm ghì lấy cuộc sống, tận hưởng cuộc sống để không phí hoài đi thời gian, tuổi trẻ. Tình yêu cuộc sống lại bùng lên cuồng nhiệt hối hả.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Lòng yêu đời tràn lên một cao trào tình cảm. Hình ảnh thơ tươi mới, đầy sức sống. Và có lẽ tình yêu cuộc sống của nhà thơ tăng dần theo từng từ muốn, ôm đến riết là đã ghì chặt hơn. Và đã say – sự ngây ngất đến bất tỉnh vẫn chưa thỏa lòng – còn muốn thâu nghĩa là muốn thu hết tất cả để có sự hòa nhập làm một. Và cuối cùng là một tiếng kêu của sự cuồng nhiệt chưa bao giờ có trong thơ.
Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi.
- Hình ảnh, ngôn từ, nhịp điệu của đoạn thơ đã bộc lộ rõ ràng lòng yêu đời cuồng nhiệt khiến nhà thơ phải hối hả, vội vàng đến với cuộc sống.
- Bài thơ là một quan niệm sống khá mới mẻ và táo bạo mà trước chưa từng có. Lối sống ở đây là lối sống biết hưởng thụ một cách chính đáng, biết khẩn trương sống cho ra sống. Tuy nhiên ở Vội vàng, tác giả chỉ đề cập đến sống thiên về hưởng thụ, chạy theo thời gian. Ông kêu gọi mọi người hãy biết yêu và tận hưởng những gì cuộc sống ban tặng, hãy tranh thủ thời gian, tuổi trẻ sống đầy đủ nhất. Ông đã quên đi nghĩa vụ kêu gọi mọi người phải cống hiến cho cuộc đời. Và trong cuộc đời nhà thơ, ông vội vàng cống hiến chứ không phải vội vàng hưởng thụ.
3.3 Kết bài
Nêu cảm nhận về tác phẩm
Học thơ Xuân Diệu, đặc biệt là qua bài thơ Vội vàng, ta càng thêm yêu cuộc sống hôm nay và càng góp phần làm cho cuộc sống đó thêm tươi đẹp, không chỉ vì cuộc sống hôm nay đã đổi mới, đã đẹp hơn nhiều lần so với cuộc sống ngày xưa của Xuân Diệu mà chủ yếu là không còn những bi kịch để thành những băn khoăn trước cuộc đời. Bức thông điệp nhà thơ gửi đến người đọc vẫn còn nguyên giá trị, được bồi đắp thêm qua thời gian và trường tồn vĩnh cửu.
Hãy sống hết mình, cống hiến tuổi trẻ cho Tổ quốc, nhân dân, đừng phí hoài thời gian. Hãy mở rộng lòng mình để đón nhận tất cả những vang động của cuộc đời. Đó là những gì mà Xuân Diệu còn giữ lại, nhắn gửi đến với người đọc của mình bức thông điệp xuyên qua thời gian, không gian, ngự trị muôn đời trong tâm hồn con người Việt Nam.
4. Triết lý nhân sinh trong bài thơ “Vội Vàng” của Xuân Diệu
4.1 Mở bài
Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Hoài Thanh viết “Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống dào dạt chưa từng có ở chốn nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết”. Tất cả những nhận định ấy đều hoàn toàn ăn khớp với Vội vàng, một trong những tác phẩm hay nhất của Xuân Diệu giai đoạn trước Cách mạng tháng tám. Thế nhưng có phải người thi sĩ chỉ nông cạn, ham muốn hưởng thụ cho sung sướng cuộc đời đâu, mà ẩn sau những vần thơ nồng nàn tha thiết ấy là cả một hệ thống những triết lý nhân sinh sâu sắc về mùa xuân, về đời người, về tuổi trẻ, là đại diện cho một hồn thơ với tam quan sâu rộng và tinh tế. Điều ấy khiến người đọc thơ lần đầu thì bật cười vì thơ Xuân Diệu bốc đồng và hồn nhiên quá, nhưng đọc lần nữa mới vỡ lẽ ra rằng, Xuân Diệu quả thật là một hồn thơ phức tạp và tinh vi vô cùng, càng đọc thêm người ta mới lại càng thấm thía nỗi suy tư, nỗi khát khao luôn rực cháy trong lòng người.
4.2 Thân bài
- Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nhận xét về Vội vàng và cả tập Thơ thơ những lời rất tâm huyết: “Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới chưa thấy trong thơ ca truyền thống”. Triết lý nhân sinh trong Vội vàng bắt nguồn từ bức tranh cuộc sống muôn màu muôn vẻ, là tổng hòa của hai yếu tố mùa xuân và tình yêu. Ông khởi đầu bức tranh ấy bằng những khao khát và ước muốn có phần táo bạo, ngông cuồng, dường như muốn khống chế cả thiên nhiên trong bốn câu thơ đầu.
“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
- Rồi sau đó mới lại bắt đầu diễn giải cho cái ước muốn khác người ấy bằng một bức tranh thiên nhiên mùa xuân căng tràn nhựa sống, lúc này đây người ta mới vỡ lẽ ra rằng hóa ra Xuân Diệu của bốn câu thơ trên chẳng hề khó hiểu, chỉ bởi rằng mùa xuân trong đôi mắt người thi sĩ đẹp quá, khiến ông phải ích kỷ “tắt nắng”, “buộc gió” thậm chí muốn gói những cảm giác tuyệt vời ấy lại rồi giữ riêng mình thưởng thức cho thỏa tấm lòng khát khao.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây là của cành tơ phơ phất
Của yến anh này đây khúc tình si
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”
- Bức tranh mùa xuân hiện lên thông qua cảm nhận chủ quan của người thi sĩ có đầy đủ hương, sắc, và thanh âm, đó là cảnh ong bướm vờn nhau “tuần tháng mật”, cảnh hoa thắm tươi điểm tô “đồng nội xanh rì”, cảnh lá, cành mơn mởn phất phơ lả lướt, mềm mại, cùng với đó là thanh âm ngọt ngào của yến anh với “khúc tình si”. Và quan trọng nhất mùa xuân không thể thiếu đi ánh nắng nhàn nhạt, ấm áp phủ lên trên tất thảy, đó là thứ ánh sáng lung linh, rớt trên rèm mi của người con gái, trong trẻo và nhẹ nhàng, đó là thứ ánh sáng tiếp thêm nhiệt huyết cho tâm hồn người thi sĩ, để nhà thơ thấy càng yêu thêm mùa xuân, yêu thêm cuộc đời.
- Đối với Xuân Diệu, mỗi một ngày là một niềm vui mới, chỉ cần được sống, được quyện mình với mùa xuân là đủ, chẳng khác nào có “thần Vui hằng gõ cửa” trái tim, thức tỉnh người thi sĩ mau ra tận hưởng cảnh sắc mùa xuân tuyệt đẹp. Có thế mới thấy rằng, quan niệm về cái đẹp của Xuân Diệu đến từ những thứ rất đỗi thân thuộc xung quanh mỗi chúng ta, chẳng cần phải bắt chước cổ nhân mơ ước đến chốn niết bàn cực lạc, vui vầy thú thanh tao, cao nhã, thoát khỏi chốn trần gian đày ải mới là hạnh phúc. Mà đối với nhà thơ hạnh phúc thực sự phải tới từ chính cuộc sống thực tại, mà ở đó con người phải biết trân trọng, tìm kiếm và cảm nhận vẻ đẹp tiềm tàng trong mỗi một sự vật, sự việc xung quanh chúng ta. Bởi suy cho cùng ta mơ về chốn thần tiên quyến lữ, nhưng có bao giờ đạt mộng ước, cái còn lại chỉ là sự thất vọng, ảo não ê chề, vậy nên hạnh phúc vẫn là nên được xây dựng từ chính cuộc sống thực tại.
- Nhưng đối với Xuân Diệu mùa xuân không chỉ đơn giản có thế, mùa xuân mà thiếu đi chút hương vị của tình yêu thì bức tranh cuộc sống trong thơ ông đã không còn đúng nghĩa. Đó chính là nét đặc sắc và cũng là triết lý nhân sinh khác của riêng Xuân Diệu, mùa xuân và tình yêu là hai khái niệm song hành. Ta nhận thấy rằng, dẫu có vẻ như tác giả chỉ đang đơn thuần tả cảnh mùa xuân bằng một giọng thơ hào hứng, sôi nổi, bằng sự tinh tế của giác quan, nhưng ẩn sâu trong đó chính là vẻ đẹp của tình yêu. Ong bướm say đắm bên nhau, ngọt ngào như mật, tựa đôi tình lữ chìm trong khoảnh khắc tân hôn, hoa với cỏ nơi đồng nội cũng có thứ hạnh phúc êm đềm, lá với cành có thứ tình yêu phong tình, lãng mạn, yến với anh nên thơ với “khúc tình si” ngọt ngào, hạnh phúc, còn riêng người thi sĩ dành cho mình mối tương tư với người thiếu nữ dưới nắng xuân, tươi trẻ, dạt dào sức sống.
- Có thể thấy, cảnh vật mùa xuân chan chứa tình yêu và hồn người thi sĩ lại càng chẳng bao giờ thiếu vắng tình yêu, ngoài cảm xúc lứa đôi thì nổi bật nhất vẫn là tình yêu với thiên nhiên với cuộc sống một cách tha thiết, nồng nàn. Thậm chí có đôi phần mãnh liệt nên mới có liên tưởng thú vị “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, ngoài sự chuyển đổi cảm xúc từ giác quan, ta còn nhận thấy rằng Xuân Diệu đang so sánh mùa xuân với tình yêu, đang so sánh thiên nhiên với con người, mà đúng ra đó không phải là so sánh mà là sự kết hợp, tương quan chặt chẽ, là quan niệm của Xuân Diệu về mùa xuân, tình yêu và cuộc sống.
- Nếu mười câu thơ đầu chính là đại diện cho vẻ ngoài của của một hồn thơ sôi nổi, đắm say và yêu đời tha thiết, thì phần thơ tiếp theo lại chính là những gì sâu sắc nhất trong tâm hồn Xuân Diệu. Mà ở đó ta thấy được những triết lý nhân sinh, những dẫn luận đầy tinh tế về mùa xuân, cuộc đời và quy luật của tạo hóa. Xuân Diệu chuyển từ cảm xúc bề nổi sang cảm xúc suy tư cũng tựa như một bản nhạc có khúc cao trào nhất, rồi dần chậm rãi đủ để thấm sâu vào hồn người, và trong Vội vàng cái khoảnh khắc giao thoa ấy nằm gọn ở hai câu thơ.
“Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”
- Mạch thơ vốn đang vồn vã, yêu đời bỗng khựng lại, có thể nói dường như cả đoạn thơ sau là dùng để diễn giải cho một câu “Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”, có gì mà nhà thơ phải vội vàng đến thế, có gì mà khiến một kẻ đang sung sướng ngất ngây phải cắt đôi cái phần sung sướng ấy để “vội vàng một nửa”? Đó là bởi Xuân Diệu đã ngộ ra quy luật tàn nhẫn của tạo hóa.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nên chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”
- Thiên nhiên, cụ thể là mùa xuân luôn có quy luật của mình đó là quy luật của thời gian, một năm 3 tháng mùa xuân, mỗi năm xuân đi rồi xuân đến, thế nhưng mùa xuân của con người nào có được như vậy. Y Vân viết rằng: “Anh ơi có bao nhiêu? 60 năm cuộc đời, 20 năm đầu, sung sướng không bao lâu, 20 năm sau, sầu vương cao vời vợi, 20 năm cuối là bao?”, tính ra con người đâu có được bao nhiêu mùa xuân, tất cả thoáng qua trong chớp mắt, một kiếp người cuối cùng cũng trở thành cát bụi, không tái sinh, không tuần hoàn. Đó đã là quy luật không thể thay đổi của tạo hóa, không một ai có thể chống lại bước đi lạnh lùng, tuyến tính của thời gian, dù rằng nó quá tàn nhẫn và xót xa.
- Thế nên với Xuân Diệu cuộc đời ngắn ngủi chưa đầy trăm năm ấy chẳng thể nào khiến ông mãn nguyện, ông luôn có một nỗi ám ảnh sâu sắc với thời gian và luôn luôn luyến tiếc vô cùng cái khung cảnh nhân gian, luyến tiếc cuộc đời, đặc biệt là luyến tiếc mùa xuân theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Vậy còn lý do gì mà Xuân Diệu không vội vàng, không khao khát, không ích kỷ nắm giữ, tận hưởng cuộc đời khi còn có thể? Từ quy luật của thời gian của tạo hóa Xuân Diệu đã mở ra một triết lý nhân sinh mới mẻ cho riêng mình, điều ấy thể hiện rất rõ ràng trong những câu thơ cuối.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”
- Quay lại với nhịp thơ dồn dập, vội vàng, Xuân Diệu ra sức thúc giục “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm”, đi để mà thưởng thức hết những gì tuyệt vời của cuộc sống trước khi mùa xuân tàn, trước khi cuộc đời tàn. Có thể thấy rằng đến đây sau khi đã nhận thức một cách rõ ràng quy luật tạo hóa thì cái khao khát tận hưởng cuộc sống, tình yêu cuộc sống của nhà thơ lại càng trở nên mãnh liệt, say đắm và nồng nàn, thậm chí là hoang dại với câu kết “Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”. Đó chính là cảm xúc thực của thi nhân, trước những thứ vô hình mà ta một lòng khát khao thì cái sự chiếm hữu lại càng tăng lên gấp bội, có lẽ rằng Xuân Diệu đang muốn thể hiện chủ quyền với mùa xuân hoặc đôi khi ông muốn nuốt “xuân hồng” vào bụng để vĩnh viễn được ở bên nó, tận hưởng cho thỏa thích cũng là điều có thể lý giải.
- Tóm lại rằng, triết lý nhân sinh của Xuân Diệu chỉ nằm vỏn vẹn trong mấy chữ: Hãy tận hưởng bằng tất cả tâm hồn và thể xác khi còn có thể!
4.3 Kết bài
Nêu cảm nhận về tác giả, tác phẩm
Xuân Diệu là một hồn thơ trẻ muôn đời, với sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào và bền bỉ ông đã đóng cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt trong Vội vàng người ta thấy được những triết lý nhân sinh mới mẻ về cái đẹp, về thời gian, và về cuộc đời thật đáng trân trọng, xuất phát từ một hồn thơ với tầm nhân sinh quan, giá trị quan, thế giới quan toàn diện và tinh tế vô cùng. Phải nói rằng yêu thơ Xuân Diệu, đọc thơ Xuân Diệu ta dường như thấy mình trẻ ra không biết bao nhiêu tuổi đời.
Xuân Diệu chính là một giọng thơ yêu đời. Ông đã mang sự vồ vập thấm vào từng câu từng chữ. Nhịp thơ mạnh, điệp từ tuôn trào hối hả tất cả đều tạo nên một hơi thở sôi nổi, mãnh liệt chưa từng có trong thơ ca.
Trả lời